EnglishVietnamese
Trang chủ / Nghiên cứu - Xây dựng pháp luật / Cung Cấp Thông Tin / Hiến pháp năm 2013 với việc bảo vệ quyền của trẻ em

Hiến pháp năm 2013 với việc bảo vệ quyền của trẻ em

ThS. HOÀNG MINH KHÔI

Học viện hành chính, cơ sở TP. Hồ Chí Minh

Hiến pháp 2013 là bản Hiến pháp không chỉ kế thừa đầy đủ những giá trị tốt đẹp nhất của các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, mà còn khẳng định sức sống mới và tính thời đại trong việc mở ra những khả năng pháp lý to lớn cho việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội; bảo đảm sự ổn định phát triển trên các lĩnh vực đối nội, đối ngoại của đất nước. Và vượt lên trên những yêu cầu định chế là sự cụ thể hóa mục tiêu chính trị – pháp lý đầy nhân văn của Đảng và Nhà nước ta: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”[1]; trong đó, việc đề cao quyền trẻ em là một nội dung cơ bản của mục tiêu nhân văn đó. Bài viết nêu nhận thức về sự bảo hộ và bảo đảm các quyền trẻ em đã được hiến định cụ thể tại Hiến pháp 2013.
Ảnh minh họa: nguồn internet
1. Sự bảo hộ và bảo đảm quyền trẻ em trong quan hệ lao động
Điều 35 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Đây là một định chế pháp lý được xác lập trên hai đường song song: bảo hộ và bảo đảm[1].
Sự bảo hộ: Đối với người thành niên, lao động vừa là quyền, đồng thời là nghĩa vụ, nhưng đối với người chưa thành niên[2] và đặc biệt là người chưa thành niên ở độ tuổi trẻ em[3] thì lao động luôn là quyền. Chính vì là “quyền” nên nó cần được bảo hộ. Một mặt, Hiến pháp nghiêm cấm mọi cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước không được phép sử dụng bất kỳ hình thức gì để thực hiện cưỡng bức lao động đối với người chưa thành niên và sử dụng lao động là người chưa thành niên còn “dưới độ tuổi lao động tối thiểu”. Độ tuổi lao động tối thiểu hiện nay theo Bộ luật Lao động hiện hành quy định (khoản 1 Điều 3) là người đủ 15 tuổi trở lên. Mặt khác, vì lao động là quyền, do đó trẻ em mặc dù chưa phải là công dân có đầy đủ tư cách pháp lý như người thành niên vẫn được Hiến pháp thừa nhận có quyền chủ thể trong những quan hệ lao động nhất định[4] – đây chính là sự bảo hộ năng lực hành vi của trẻ em – quyền được lựa chọn tham gia vào những hoạt động mang lại lợi ích vật chất hoặc tinh thần cho bản thân, gia đình và xã hội phù hợp với khả năng cá nhân và điều kiện của pháp luật. Đó có thể là những lao động nghệ thuật, như: xiếc, ca nhạc, điện ảnh, sân khấu… Vì vậy, sự bảo hộ của Hiến pháp đối với quyền trẻ em trong quan hệ lao động nhất định còn được xem là tạo ra cơ hội để các em thể hiện tài năng, năng khiếu sớm ngay từ độ tuổi thiếu niên, nhi đồng.
Sự bảo đảm: trẻ em tham gia vào quan hệ lao động đương nhiên trở thành chủ thể của pháp luật lao động, tuy nhiên có thể được xem là chủ thể đặc biệt vì sự đảm bảo pháp lý rằng không một ai được sử dụng cách thức không hợp pháp để lừa dối, hoặc buộc trẻ em lao động trái ý muốn; mọi sự phân biệt đối xử tiêu cực về nhân phẩm, danh dự và sức khỏe của trẻ em trong quan hệ lao động đều bị coi trái pháp luật nghiêm trọng. Sự bảo đảm cho quyền lao động của trẻ em được an toàn tối đa được Hiến pháp 2013 khẳng định rõ tại Điều 35: nghiêm cấm phân biệt đối xử; nghiêm cấm sự cưỡng bức lao động đối với trẻ em và nghiêm cấm sử dụng lao động trẻ em dưới độ tuổi tối thiểu.
Có thể nói, sự bảo hộ và bảo đảm về quyền trẻ em trong quan hệ lao động là một định chế hoàn toàn mới so với quy định tại các bản Hiến pháp trước đây; phù hợp với xu thế phát triển chung của con người hiện đại. Người chưa thành niên và người chưa thành niên ở độ tuổi trẻ em được sống, lớn lên trong điều kiện vật chất và khoa học công nghệ phát triển vượt bậc hơn so với trước đây. Ưu thế vượt trội về năng lực, trí lực, thể chất của các em đòi hỏi một môi trường để tham gia hoạt động xã hội, nuôi dưỡng và rèn luyện tài năng, kỹ năng sống sớm hơn trong sự bảo hộ và bảo đảm pháp lý của Hiến pháp và pháp luật. Quyền hiến định này của Hiến pháp 2013 là hoàn toàn phù hợp Công ước quốc tế về sử dụng lao động trẻ em[5].
2. Sự bảo hộ và bảo đảm quyền trẻ em trong quan hệ hôn nhân và gia đình
Hôn nhân và gia đình luôn được xem là những giá trị đạo lý truyền thống nền tảng của dân tộc. Hôn nhân hạnh phúc là trọng tâm của mọi gia đình; gia đình hạnh phúc là thành tố làm nên sự ổn định, phát triển xã hội và khi xã hội ổn định, phát triển thì đó cũng là cơ sở thiết thực cho hôn nhân và gia đình hạnh phúc – trong đó, chăm sóc và bảo vệ trẻ em là hạt nhân cơ bản. Lịch sử các bản Hiến pháp nước ta đều minh chứng mối quan hệ hữu cơ này luôn được Nhà nước quan tâm xác lập, bảo hộ. Cụ thể:
– Hiến pháp 1946 tuy chưa quy định cụ thể về sự bảo hộ đối với hôn nhân và gia đình nhưng với quy phạm giản đơn mà súc tích, đã hàm chứa việc xác lập các yếu tố về quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện” (Điều thứ 9). Đặc biệt là sự hiến định rất sớm việc bảo hộ quyền trẻ em được chăm lo nuôi dưỡng, học hành “trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều thứ 14), “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí…; học trò nghèo được Chính phủ giúp đỡ” (Điều thứ 15).
– Hiến pháp 1959 ra đời trong hoàn cảnh đất nước bị chia cắt hai miền, nhưng vẫn tiếp tục kế thừa và phát triển các định chế bảo hộ quyền lợi của bà mẹ và trẻ em; khẳng định bảo hộ hôn nhân và gia đình (Điều 24).
– Hiến pháp 1980 được xem là đỉnh cao về sự bảo hộ của Nhà nước đối với hôn nhân – gia đình và quyền trẻ em; đó là sự xác lập cơ sở pháp lý cho “gia đình là tế bào của xã hội”, cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con cái thành những công dân có ích cho xã hội và Nhà nước không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con (Điều 64). Nhà nước và xã hội chú trọng bảo vệ, chăm sóc và giáo dục thiếu niên, nhi đồng, mở rộng dần việc đảm nhiệm nuôi dạy trẻ em, làm cho sinh hoạt, học tập và trưởng thành của các em được bảo đảm (Điều 65)…;
– Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001) là bản Hiến pháp tái xác lập gần như nguyên vẹn các định chế của Hiến pháp 1980 về bảo hộ hôn nhân và gia đình (Điều 63, 64, 65, 67), nhất là về quyền trẻ em được sống, được nuôi dưỡng phát triển và học tập trong sự chăm lo của gia đình, Nhà nước và xã hội.
– Hiến pháp 2013 kế thừa Hiến pháp 1992 tiếp tục khẳng định sự bảo hộ quan hệ hôn nhân – gia đình và quyền trẻ em dựa trên các nguyên tắc “tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau. Bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em” (Điều 36). Có thể nói, Hiến pháp 2013 không chỉ xác lập những giá trị căn bản truyền thống mà còn thể hiện sự hiến định bằng một kỹ thuật ngôn ngữ đơn giản, cô đọng và mang tính khái quát cao.
Sự khẳng định “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em” của Hiến pháp 2013 còn được hiểu: Khi một xã hội được lãnh đạo bởi một Nhà nước pháp quyền thì lẽ đương nhiên, mọi thành tố cấu thành ra nó đều phải được pháp luật bảo đảm tồn tại, phát triển. Hầu hết con người sinh ra đều có một gia đình và nhiều gia đình chính là những thành tố hay có thể gọi là “tế bào” tạo thành xã hội. Thực hiện sự bảo hộ hôn nhân – gia đình cũng chính là thực hiện sự bảo đảm quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về hôn nhân – gia đình. Theo đó, cha mẹ phải có trách nhiệm nuôi dạy, giáo dục con; Nhà nước và xã hội phải ưu tiên quan tâm bảo đảm quyền lợi người mẹ và trẻ em. Con cháu khi trưởng thành, đủ điều kiện phải có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà, cha mẹ. Những nội dung trên đây đều là giá trị truyền thống, do vậy khi đề ra định chế bảo hộ và bảo đảm đối với quan hệ hôn nhân – gia đình thì tất yếu đã bao hàm sự xác lập những giá trị này mà không cần tách bạch chúng thành những quy phạm riêng lẻ. Điều đó cho thấy rõ tính khái quát cao nhưng súc tích, dễ hiểu là đặc điểm ở các định chế của Hiến pháp 2013, cho phép khắc phục được những yếu tố mang nội hàm động viên chung hoặc liệt kê thuật ngữ ở các Hiến pháp trước, như: “Gia đình là tế bào của xã hội”; “Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy…”, “Con cháu có bổn phận…” hay “không thừa nhận phân biệt đối xử giữa các con”…
3. Sự bảo hộ và bảo đảm quyền trẻ em trong các quan hệ pháp luật và pháp luật tố tụng
Điều 37 Hiến pháp 2013 quy định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.
Như vậy, ngoài những định chế bảo vệ quyền trẻ em trong quan hệ lao động, quan hệ hôn nhân – gia đình, Hiến pháp 2013 còn xác lập cơ chế bảo hộ và bảo đảm hầu hết các quan hệ xã hội là các quyền của trẻ em phải được toàn thể xã hội chăm lo, bảo vệ; được sống trong môi trường phù hợp để phát triển, được học tập, rèn luyện. Định chế “nghiêm cấm” là một hình thức quy phạm mệnh lệnh mang tính bắt buộc, tạo ra khả năng pháp lý cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn và loại trừ ngay mọi biểu hiện không phù hợp hoặc trái với nó, được dự kiến với ít nhất là 06 trường hợp, tình huống rất cụ thể: “xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột”. Đây cũng chính là cơ sở thiết lập các chế định về quyền trẻ em trong các hoạt động tố tụng hành chính, tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố tụng lao động.
Người chưa thành niên nói chung và người chưa thành niên ở độ tuổi trẻ em trong hầu hết các trường hợp đều chưa có đầy đủ quyền công dân tham gia vào những quan hệ xã hội được điều chỉnh bởi quy phạm pháp luật, nhưng tùy thuộc vào từng cấp độ tuổi, họ có thể được pháp luật thừa nhận năng lực hành vi trong một số quan hệ xã hội có điều kiện nhất định[6]. Nhưng các em lại dễ bị lợi dụng, xúi giục hoặc bị lừa dối để tham gia vào những việc làm trái pháp luật hoặc bị buộc trở thành nạn nhân của sự phân biệt đối xử, ngược đãi, bóc lột, xúc phạm nhân phẩm và những hành vi trái pháp luật khác[7]. Do đó, Hiến pháp 2013 đã đề ra định chế “nghiêm cấm”, chính là sự bảo hộ và bảo đảm pháp lý tối cao cho hệ thống bảo vệ quyền trẻ em trong mọi quan hệ pháp luật. Trong Hiến pháp 1992, định chế “nghiêm cấm” chỉ dành riêng cho đối tượng là phụ nữ: “nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ” (Điều 63), Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng định chế “nghiêm cấm” để bảo hộ và bảo đảm pháp lý tối cao cho trẻ em.
Cũng cần nói thêm, tại khoản 3 Điều 103 Hiến pháp 2013 quy định về hoạt động xét xử của Toà án nhân dân là xét xử công khai, nhưng “Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín”. Đây chưa phải là định chế pháp lý điều chỉnh trực tiếp và mang tính bắt buộc đối với việc bảo vệ quyền của người chưa thành niên trong hoạt động tố tụng, mà là một quy phạm tùy nghi dựa trên quyền lựa chọn áp dụng của cơ quan tòa án, nhưng quy phạm này cũng đồng thời xác lập một nguyên tắc xét xử có nội dung bảo vệ người chưa thành niên, để họ không phải gánh chịu thêm sự tổn thương tâm lý không cần thiết trong quá trình tham gia tố tụng tại phiên tòa.
Việc xét xử kín đối với những trường hợp luật định cũng đã được Hiến pháp 1992 xác lập (Điều 131) và được cụ thể hóa ở Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (Điều 18); tuy nhiên, cả hai văn bản này đều chưa đặt ra việc áp dụng đối với trường hợp người tham gia tố tụng là người chưa thành niên. Khi người tham gia tố tụng là người chưa thành niên thì có thể, họ là người đã thực hiện hành vi phạm pháp hoặc có thể là nạn nhân của hành vi phạm pháp, song dù ở tư cách tố tụng nào nhưng nếu đó là trường hợp có liên quan đến bí mật cá nhân, hay việc xét xử có thể làm tái hiện lại những xúc phạm nghiêm trọng về sự tự trọng và nhân phẩm, hoặc có thể tạo ra khả năng bất lợi cho quá trình phát triển bình thường sau này của người chưa thành niên[8]v.v.. thì đều thuộc tình huống phải áp dụng nguyên tắc xử kín. Do đó, Hiến pháp 2013 đã bổ sung người chưa thành niên vào đối tượng được áp dụng hình thức tố tụng đặc biệt này. Đây cũng là việc làm hoàn chỉnh hơn trách nhiệm của Nhà nước đối với thế hệ tương lai, đồng thời cũng phù hợp với Công ước quốc tế về quyền trẻ em[9]. Đây sẽ là cơ sở pháp lý nền tảng để Bộ luật Tố tụng hình sự sửa đổi, bổ sung thành các quy phạm pháp luật cụ thể.
Trẻ em luôn là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết quốc gia trên thế giới. Làm thế nào để trẻ em được phát triển trong điều kiện phù hợp nhất, được khuyến khích phát triển thể lực, trí lực, năng khiếu, tài năng một cách tự do, đầy đủ nhất; thậm chí, kể cả khi họ đã vi phạm pháp luật và vi phạm nghiêm trọng ở mức nào chăng nữa thì họ vẫn cần được hưởng cách thức xử lý riêng của pháp luật dành cho họ. Chính vì vậy, Việt Nam là một trong những quốc gia phê chuẩn sớm nhất Công ước Liên hợp quốc về quyền trẻ em và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của nhiều cam kết quốc tế khác về bảo hộ và bảo đảm các quyền cơ bản của trẻ em như: quyền sống và phát triển vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, quyền tham gia của trẻ em, bảo vệ trẻ không bị bóc lột và lợi dụng. Trong hệ thống pháp luật ở nước ta, việc xử lý người chưa thành niên vi phạm pháp luật đều nhằm vào yêu cầu chủ yếu là giáo dục, tạo điều kiện cho họ nhận thức được lỗi lầm, quyết tâm sửa chữa thành người có ích cho bản thân, gia đình và xã hội. Quan điểm này được thể hiện rõ ràng từ Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992; theo đó, những định chế về trẻ em đã được các luật cụ thể hóa, như: Luật Hôn nhân và Gia đình 2001 (Điều 37); Luật về Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 (Điều 58). Ngay cả với Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012 (Điều 134) và Bộ luật Hình sự 1999 (Điều 69) là những luật có chế tài nghiêm khắc cũng đều có những quy định riêng về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm pháp. Song, cũng phải thẳng thắn thừa nhận rằng, trong hệ thống pháp luật “đồ sộ”, chúng ta thực sự chưa dành “sân chơi” riêng cho một hệ thống tư pháp của người chưa thành niên; sự bảo hộ và bảo đảm quyền trẻ em trong các quan hệ pháp luật tố tụng ở các luật hiện nay chưa được minh thị cụ thể và rõ ràng. Chính vì thế, Hiến pháp 2013 đã quy định: trẻ em “được tham gia vào các vấn đề về trẻ em” – là một nội dung hoàn toàn mới, đáp ứng yêu cầu cấp thiết để hoàn thiện hệ thống pháp luật và xác lập một định chế mở đường cho hệ thống tư pháp người chưa thành niên hình thành, phát triển toàn diện. Sự bảo hộ và bảo đảm quyền trẻ em được nâng lên ở tầm cao mới, các em không chỉ được nói lên những yêu cầu, được lựa chọn những mong muốn sống trong điều kiện tốt đẹp hơn mà còn được sử dụng quyền tự vệ, quyền phản biện bác bỏ cũng như quyền yêu cầu sự trợ giúp cần thiết để chống lại những cáo buộc bất lợi đối với mình ngay cả khi ở vị thế khó khăn là người vi phạm pháp luật.
Để triển khai tốt định chế của Hiến pháp 2013 về quyền trẻ em trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền hiện nay, thiết nghĩ, chúng ta phải tiếp tục có những sửa đổi, bổ sung căn bản hệ thống pháp luật tố tụng đối với trẻ em trên các lĩnh vực lao động, dân sự, hành chính và hình sự. Riêng đối với các quan hệ pháp luật liên quan đến người chưa thành niên, xin được nêu một số giải pháp, khuyến nghị sau đây:
(i) Hệ thống tư pháp theo nghĩa rộng, còn được hiểu là bên cạnh hoạt động xét xử chính thức của cơ quan tòa án, còn có thể bao gồm những cơ chế đặc thù để thi hành bản án, hoặc để giải quyết các tranh chấp – đây cũng là một cơ chế tích cực đang được phổ cập một cách thận trọng ở nước ta trong hệ thống bổ trợ tư pháp[10] – những cơ chế này là sự cần thiết để giải quyết những khó khăn và quá tải hiện nay của hệ thống cơ quan xét xử và cơ quan hành chính – tư pháp. Để phát huy theo mô hình này, nên xây dựng một cơ chế bổ trợ tư pháp trong hoạt động tổ chức thực hiện các quyết định áp dụng biện pháp xử lý của cơ quan có thẩm quyền đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật. Đây có thể là các tổ chức xã hội hoặc cá nhân được Nhà nước giao quyền bảo vệ, quản lý, giáo dục đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật, dưới sự kiểm soát từ một cơ quan chuyên trách của Nhà nước.
(ii) Hợp nhất các biện pháp xử lý hành chính đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật trong Luật Xử lý vi phạm hành chính với “Các biện pháp tư pháp” và “Các biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội” quy định ở Bộ luật Hình sự, vì hầu hết các biện pháp của hai luật này đầu trùng lặp về nội dung và hình thức thực hiện, để xây dựng Luật về Các biện pháp tư pháp. Luật này có thể được quy định dẫn chiếu áp dụng ở các luật liên quan. Như vậy, sẽ khắc phục được tình trạng cùng một hình thức và nội dung chế tài, nhưng trùng lặp trong cả hai luật hành chính và luật hình sự[11].
Quy định các biện pháp thay thế tại Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện nay đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật bằng các hình thức: nhắc nhở, giám sát tại gia đình và không bị coi là bị xử lý do vi phạm pháp luật. Có thể xem đây là bước phát triển mới đầy tính nhân văn và đề cao trách nhiệm gia đình, trách nhiệm cộng đồng, nên cần tách khỏi Luật Xử lý vi phạm hành chính và sáp nhập vào Luật về Các biện pháp tư pháp nêu trên.
(iii) Thành lập hệ thống tòa án thanh thiếu niên. Trước mắt, để khắc phục những khó khăn về nhân lực, cơ sở vật chất của cơ quan tòa án trong việc áp dụng các biện pháp tư pháp; đồng thời khắc phục cơ chế hình thức, ít hiệu quả và trùng lặp về áp dụng các biện pháp xử lý hành chính và các biện pháp tư pháp nêu trên, cần sớm xây dựng cơ chế nhà nước ủy quyền có điều kiện theo mô hình bổ trợ tư pháp trong hoạt động này, đó là hình thức và cơ chế Hội đồng xử lý về biện pháp tư pháp (điều chỉnh Dự thảo Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án nhân dân thành Dự thảo Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp tại Tòa án nhân dân). Tòa án là cơ quan chủ trì Hội đồng áp dụng các biện pháp tư pháp, nhưng trên cơ sở trao quyền dưới hình thức ủy quyền xét quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp cho các “thẩm phán hợp đồng” – là những người được lựa chọn có đủ điều kiện thực hiện các hoạt động tư pháp. Đây là lực lượng được tuyển dụng từ ban Hội thẩm nhân dân; cán bộ tư pháp; Hội Luật gia và các tổ chức thành viên Mặt trận tổ quốc Việt Nam cấp huyện, xã. Họ phải là những người tự nguyện, đảm bảo tiêu chí xét tuyển, được cơ sở đào tạo của Tòa án tổ chức huấn luyện từ 03 đến 06 tháng và được cấp giấy chứng nhận đã hoàn thành chương trình kỹ năng về nghiệp vụ thẩm phán. Trên cơ sở này, Chánh án Tòa án nhân dân cấp huyện sẽ ký hợp đồng ủy quyền thực hiện nhiệm vụ quyền hạn của Hội đồng áp dụng các biện pháp tư pháp; thời hạn ủy quyền đối với từng vụ việc và theo thời gian của Dự thảo Pháp lệnh Trình tự, thủ tục xem xét, quyết định áp dụng các biện pháp tư pháp tại Tòa án nhân dân. Chánh án Tòa án cấp huyện quyết định thành lập Hội đồng xử lý về biện pháp tư pháp và chỉ định chủ tịch Hội đồng trong mỗi vụ cụ thể. Cơ cấu Hội đồng nên là 03 thành viên. Trong thời hạn 03 ngày kể từ ngày Hội đồng xử lý về biện pháp tư pháp quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tư pháp, quyết định được Chánh án Tòa án cấp huyện phê chuẩn, có hiệu lực thi hành. Việc phê chuẩn của Chánh án có ý nghĩa thẩm định, bảo đảm tính có căn cứ và tính hợp pháp của việc quyết định. Trường hợp Chánh án chưa đồng thuận, có thể thương lượng với Hội đồng để điều chỉnh hoặc bổ sung cho phù hợp.
Cơ chế này có thể thực hiện trong thời hạn từ 5 – 10 năm để tích lũy kinh nghiệm và đảm bảo quá trình tích lũy các điều kiện về lực lượng, cơ sở vật chất làm nòng cốt chuyển hóa thành Tòa án Thanh thiếu niên (việc áp dụng các biện pháp tư pháp đối với người thành niên có thể giữ nguyên như cơ chế đã thực hiện hoặc chuyển thành một bộ phận chuyên trách trực thuộc Tòa án cấp huyện).
Về lâu dài, cần tổ chức hệ thống Tòa án Thanh thiếu niên trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm hoạt động của Tòa án cho người chưa thành niên ở các nước, như Canada, Anh và xứ Wales… Hệ thống Tòa án Thanh thiếu niên sẽ được tổ chức theo mô hình hai cấp tỉnh và huyện, đối tượng điều chỉnh là những hành vi người chưa thành niên vi phạm pháp luật hình sự và người chưa thành niên vi phạm pháp luật hành chính. Mô hình Tòa án Thanh thiếu niên không phụ thuộc hành chính vào Tòa án nhân dân cùng cấp hiện nay, nhưng thuộc sự quản lý của Tòa án nhân dân tối cao. Tòa án Thanh thiếu niên khi xét xử quyết định miễn hình phạt và áp dụng biện pháp tư pháp thì chỉ thực hiện theo trình tự một cấp (không quy định việc kháng cáo, kháng nghị). Đối với việc xử phạt hành chính (cảnh cáo, phạt tiền), hoặc xử lý trách nhiệm hình sự thì thực hiện theo Luật Tố tụng hành chính và Luật Tố tụng hình sự hiện hành, nhưng cũng cần nghiên cứu sửa đổi rút gọn, giản đơn hơn so với tố tụng của người thành niên.
(iv)Xây dựng tổ chức chuyên trách thanh thiếu niên. Xây dựng hệ thống tư pháp người chưa thành niên không chỉ là xây dựng hệ thống phán xét công bằng, phù hợp; mà còn phải có hoạt động rất quan trọng khác – một mặt đề cao sự phê phán nghiêm minh của pháp luật; mặt khác là sự động viên, khích lệ, hướng nhận thức của người lầm lỗi vào cái tốt đẹp, giúp họ trở về có ích cho cộng đồng; và mọi mục đích tốt đẹp đó có đạt được hay không, đều tùy thuộc vào quá trình tổ chức thực hiện biện pháp tư pháp đối với họ – đó là xây dựng một hệ thống nhân lực, vật lực chuyên trách. Để tránh tình trạng dàn trải và chồng lấn giữa các cơ quan, ban ngành, đoàn thể trong việc chăm lo đối với người chưa thành niên vi phạm pháp luật có thể hợp nhất và xây dựng mô hình Ủy ban quốc gia về Thanh thiếu niên được tổ chức theo cấu trúc cơ quan cấp bộ, theo phân cấp vùng, miền và trực thuộc Chính phủ. Nhiệm vụ cơ bản của ủy ban này sẽ là chăm lo, quản lý đối với hai bộ phận thanh thiếu niên: bộ phận thanh thiếu niên phát triển bình thường và bộ phận thanh thiếu niên vi phạm pháp luật hoặc có nguy cơ vi phạm pháp luật. Ủy ban này sẽ là nơi tập trung những chuyên gia giáo dục, y tế, thể thao, tâm lý… chuyên trách về người chưa thành niên. Giúp việc cho ủy ban là lực lượng hỗ trợ tư pháp thích hợp với nhiệm vụ chủ yếu là chăm sóc, bảo vệ người chưa thành niên./.

[1]Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI về Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020.

[1] Đại Từ điển tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên, NXB Văn hóa Thông tin, 1999, tr.109-110: “Bảo hộ”: bảo vệ, che chở, bênh vực không để tổn thất, thiệt hại. “Bảo đảm”: Cam đoan chịu trách nhiệm về việc gì đó.
[2]Bộ luật Dân sự 2005 (Điều 20): “Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên”
[3]Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004 (Điều 1): “Trẻ em quy định trong Luật này là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi”
[4]Bộ luật Lao động năm 2013 quy định (Điều 163) về nguyên tắc sử dụng lao động là người chưa thành niên: “không được sử dụng lao động chưa thành niên làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc chỗ làm việc, công việc ảnh hưởng xấu tới nhân cách của họ theo danh mục do Bộ Lao động – Thương binh và xã hội chủ trì phối hợp với Bộ Y tế ban hành.
[5]Công ước số 138 của ILO về tuổi tối thiểu được đi làm việc, 1973 (Điều 2): “không được dưới độ tuổi kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc và bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 15 tuổi. Tuy nhiên, nước thành viên mà nền kinh tế và các phương tiện giáo dục chưa phát triển đầy đủ thì sau khi tham khảo ý kiến các tổ chức hữu quan (nếu có) của người sử dụng lao động và của người lao động, có thể quy định độ tuổi tối thiểu là 14 tuổi trong giai đoạn đầu”.
[6]Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 quy định (Điều 9); “Con từ đủ mười lăm tuổi đến dưới mười tám tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng” (Điều 48); “Việc nhận trẻ em từ đủ chín tuổi trở lên làm con nuôi phải được sự đồng ý của trẻ em đó” (Điều 71); “Việc thay đổi họ, tên của con nuôi từ đủ chín tuổi trở lên phải được sự đồng ý của người đó” (Điều 75);
BLLĐ năm 2012 (Điều 3): “1. Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, …”;
Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (Điều 5): “Các đối tượng bị xử phạt vi phạm hành chính bao gồm: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi bị xử phạt vi phạm hành chính về…”;
Bộ luật Hình sự 1999 (Điều 12): “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý…”;
[7]Ở TP. Hồ Chí Minh theo thống kê đến tháng 9/2011có khoảng 70.000 trẻ có hoàn cảnh đặc biệt; trong đó hàng ngàn trường hợp trẻ em phải lang thang kiếm sống, bị lợi dụng và cũng là nguồn phát sinh vi phạm, tội phạm. Từ năm 2005 đến nay, phát hiện có 575 vụ xâm hại tình dục trẻ em. Chỉ trong năm 2010, có1.120 người chưa thành niênphạm pháp hình sự, chiếm 12% tổng số vụ trên địa bàn thành phốNguồnUBND TP.Hồ Chí Minh, (2010), Chương trình bảo vệ trẻ em thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2011-2015, tr.3.
[8] Ví dụ: người chưa thành niên là nạn nhân bị hành hạ về thể xác, bị lợi dụng tình dục, bị cưỡng hiếp hoặc người thành niên chính là người đã thực hiện những hành vi đó.
[9] Công ước Quốc tế về quyền trẻ em (Điều 16) nêu: “Không trẻ em nào phải chịu sự can thiệp tùy tiện hay bất hợp pháp vào việc riêng tư, gia đình, nhà cửa hoặc thư tín cũng như những sự công kích bất hợp pháp vào danh dự và thanh danh của các em”. 
 
[10] Hoạt động Công chứng; hoạt động Thừa phát lại…
[11] Hoàng Minh Khôi, (2012), Các biện pháp xử lý hành chính người chưa thành niên vi phạm pháp luật, Luận văn ThS, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.

(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên Ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 15(271), tháng 8/2014)