EnglishVietnamese
Trang chủ / Nghiên cứu - Xây dựng pháp luật / Cung Cấp Thông Tin / “CƯ XỬ ĐÚNG MỰC, NÓI NĂNG HỢP LÝ VÀ PHONG CÁCH CHUYÊN NGHIỆP KHÔNG THỂ LÀ ĐỐI TƯỢNG BỊ XỬ PHẠT”

“CƯ XỬ ĐÚNG MỰC, NÓI NĂNG HỢP LÝ VÀ PHONG CÁCH CHUYÊN NGHIỆP KHÔNG THỂ LÀ ĐỐI TƯỢNG BỊ XỬ PHẠT”

“CƯ XỬ ĐÚNG MỰC, NÓI NĂNG HỢP LÝ VÀ PHONG CÁCH CHUYÊN NGHIỆP KHÔNG THỂ LÀ ĐỐI TƯỢNG BỊ XỬ PHẠT”

Trong thời gian vừa qua, những người hành nghề luật sư không khỏi bức xúc, thậm chí hoang mang, lo lắng khi thấy một số thẩm phán ra lệnh cho cảnh sát hỗ trợ tư pháp bảo vệ phiên tòa “sốc nách” luật sư buộc rời khỏi phiên tòa. Các luật sư cho rằng mình không có lỗi và đang tham gia phiên tòa đúng luật, các hành vi của thẩm phán là xâm phạm quyền hành nghề luật sư,… Đơn thư khiếu nại của cá nhân, tổ chức và cả kiến nghị của Liên Đoàn LSVN (cơ quan đại diện cao nhất cho giới luật sư Việt Nam) cũng đã được gửi đến nơi có thẩm quyền giải quyết, nhưng câu trả lời ai đúng ai sai đến nay vẫn chưa được làm rõ. Chắc chắn rằng bản thân người trong cuộc và cả giới luật sư đang nghe ngóng và nóng lòng chờ đợi sự phúc đáp từ phía cơ quan có thẩm quyền để có thể lựa chọn cách hành xử tiếp theo phù hợp hơn trong nghề nghiệp. Vấn đề được đặt ra là các luật sư đã làm sai điều gì đến mức phải bị “mời” rời khỏi phiên xử bằng sức mạnh của sự cưỡng chế và có phần bạo lực. Thực tế, bất kỳ ai cũng phải thừa nhận rằng, nghề luật sư đòi hỏi người hành nghề phải luôn sử dụng tất các kĩ năng nghề nghiệp của mình để thuyết phục người khác lắng nghe ý kiến mình. Sự thuyết phục của luật sư thể hiện ở cách cư xử đúng mực, nói năng hợp lý, phong cách giao tiếp ứng xử có văn hóa và biểu hiện cao nhất của khả năng thuyết phục là tính hùng biện trong tranh tụng. Ở đó, luật sư như đang hóa thân vào sự biểu đạt của ngôn ngữ (ngôn ngữ nói kết hợp với các yếu tố phi ngôn ngữ, như ánh mắt, cử chỉ, điệu bộ,…) qua đó truyền cảm xúc, thu hút người nghe nhằm để họ cảm nhận được, hiểu được điều mình muốn diễn đạt. Những phản ứng gay gắt, hung hăng, giận dữ hay những ngôn từ bất cẩn, thiếu thận trọng có thể sẽ mang lại những bất lợi cho chính luật sư và cả thân chủ của mình. Và như thế, tại phiên tòa, nếu luật sư được tòa lắng nghe (khi hỏi và trình bày luận cứ) thì rõ ràng đã có sự thiếu tôn trọng, coi thường hay không cần bận tâm của người tiến hành tố tụng đối với luật sư. Điều này xảy ra có thể do nhận thức chưa thực sự đúng đắn về vai trò luật sư, do định kiến với luật sư, do mâu thuẫn cá nhân hoặc do chính luật sư đã tạo ra những vấn đề của chính mình đối với người tiến hành tố tụng. Chính lúc này, sự xuất hiện của luật sư tại phiên tòa thật sự thừa thải, gây khó chịu và luật sư lúc đó chỉ có vai trò trang trí đủ cho bức tranh nhiều màu sắc của việc xét xử. Do vậy, để tránh tình trạng trên có thể xảy ra, hầu hết các luật sư khi chuẩn bị tham gia phiên tòa thường đã có sự chủ động trong việc “ứng xử” để không bị rơi vào tình cảnh lạc lỏng đến mức không được tòa chú ý lắng nghe phần tác nghiệp của mình. Mặc dù vậy, cho dù có sự chuẩn bị thật tốt, các luật sư sẽ có thể gặp phải và cần đối diện hai thái độ ứng xử (của người tiến hành tố tụng) trong thực tiễn xét xử hiện nay: Một là, khi luật sư hỏi hoặc trình bày sẽ được tòa chú lắng nghe, ghi nhận với sự tôn trọng; Hai là, tòa tỏ ra coi thường, xem nhẹ đến mức không chú ý đến luật sư (thẩm phán nghe điện thoại, nhắn tin, đọc hồ sơ khác, trao đổi riêng, bước ra bên ngoài,…) hoặc sẽ có những hành xử cản trở, gây khó khăn cho luật sư (ngắt lời, không cho hỏi, buộc ra ngoài,…). Thái độ ứng xử thứ hai dành cho luật sư có thể xuất phát từ sự “xung khắc” đã xảy ra giữa luật sư và người tiến hành tố tụng. Sự xung khắc này có thể xuất phát từ những nguyên nhân không đáng có, như: luật sư nhìn mặt thấy ghét, phát biểu không có căn cứ, khi trình bày thì nói quá to, gào lên, tranh nói, nói cho bằng được; hoặc từ phía người tiến hành tố tụng đã có thái độ nhận thức chưa đầy đủ về chức năng, vai trò của luật sư, định kiến về luật sư, coi thường luật sư, …; và cũng có thể xuất phát từ những nguyên nhân sâu xa hơn trong mối quan hệ của cả hai phía. Việc “mời” hay “đuổi” luật sư không cho tham gia phiên tòa xuất phát từ những nguyên nhân nêu trên là hoàn toàn không khách quan, không phù hợp với qui định pháp luật tố tụng. Trong khi đó, các qui định về quyền bào chữa, bảo vệ trong pháp luật tố tụng cho phép luật sư tham gia tố tụng được sử dụng tất cả các kĩ năng nghề nghiệp hợp pháp để bảo vệ tốt nhất thân chủ của mình. Song song đó, nếu luật sư có hành vi sai trái, vượt ngưỡng (có tính định tính) trong hành xử thì lập tức sẽ bị chế tài không chỉ về mặt đạo đức nghề nghiệp theo qui tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, mà còn bị xử phạt hành chính (nếu chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự) nghiêm khắc theo qui định pháp luật. Có vẻ như luật sư phải vượt qua được cùng lúc bốn lớp rào cản (qui định tố tụng, các chế tài hành chính, các qui tắc đạo đức và ứng xử, thái độ của người tiến hành tố tụng) để thực hiện phần tác nghiệp nghề nghiệp của mình. Liệu có phù hợp hay không khi có cả một hệ thống các qui tắc, các chế tài nghiêm khắc đối với luật sư, nhưng điều này không được qui định rõ ràng đối với người tiến hành tố tụng. Những căn cứ chỉ có tính  định tính, không thể đo lường được sử dụng vô hình chung đã tăng thêm quyền lực phi lý cho người tiến hành tố tụng mà lẽ ra họ “chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Sự lạm quyền rất dễ xảy ra khi căn cứ để thực thi “quyền lực” chưa được qui định chặt chẽ và lỗi vi phạm được xác định chỉ dựa trên dấu hiệu định tính.

          Nghị định 82/NĐ-CP áp dụng các mức xử phạt rất nặng đối với những hành vi được xem là vi phạm đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư:

Tại khoản 6, Điều 6, NĐ 82/NĐ-CP qui định: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: “Có lời lẽ, hành vi xúc phạm cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình tham gia tố tụng”  hay “Sách nhiễu khách hàng; nhận, đòi hỏi bất kỳ một khoản tiền, lợi ích khác ngoài khoản thù lao và chi phí đã thỏa thuận trong hợp đồng dịch vụ pháp lý; lừa dối khách hàng mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”; hoặc “Ứng xử, phát ngôn hoặc có hành vi làm ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín của nghề luật sư hoặc gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự”.

Tuy có thể sẽ có những tranh cãi về các mức độ vi phạm đạo đức hay vi phạm hành chính, dấu hiệu vi phạm là định tính hay định lượng,… nhưng Nghị định 82/NĐ-CP cũng đã bước đầu lượng hóa những dấu hiệu định tính thành căn cứ định lượng để xử phạt đối với các luật sư vi phạm. Về nhận thức, các luật sư không thể né tránh một thực tế là việc vi phạm qui tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư cũng có thể là vi phạm các qui định về trật tự quản lý hành chính trong tư pháp và sẽ bị xử phạt rất nghiêm khắc. Do vậy, để tránh bị xử lý về đạo đức (khiển trách, cảnh cáo,…), xử phạt về hành chính (phạt tiền, đình chỉ hoạt động,…), các luật sư buộc phải ý thức về việc cần cư xử đúng mực, nói năng hợp lý, phong cách giao tiếp ứng xử có văn hóa, trong cuộc sống, trong hành nghề, trong mối quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng,… Đây là một đòi hỏi tất yếu về các phẩm chất, kĩ năng cần có của một luật sư chuyên nghiệp, không đơn thuần chỉ là những đòi hỏi có tính nhất thời, đối phó với việc xử phạt vi phạm đạo đức hay hành chính.

Ls.Lê Quang Y

Phó chủ nhiệm Đoàn Luật sư Đồng Nai

Chủ tịch Hội Đồng Luật Sư Viện