SLRI – Chúng tôi đoàn công tác Viện nghiên cứu pháp luật phía Nam trở lại Bù Đăng nhân buổi dự họp báo công bố các hoạt động chào mừng 50 năm Ngày giải phóng huyện Bù Đăng (14-12-1974- 14- 12- 2024) và Lễ hội “Vang mãi tiếng chày trên sóc Bom Bo”. Có thể nói, chưa bao giờ Bom Bo lại rộn rã đến thế, với sự vươn lên của một vùng đất cách mạng, đã đi vào lịch sử như một huyền thoại thời chống Mỹ.
Tiếng vọng từ đại ngàn
Sau vài giờ họp báo với những thông tin hữu ích từ các vị lãnh đạo huyện Bù Đăng tại trung tâm thị trấn Đức Phong, chúng tôi di chuyển đến ngã ba Minh Hưng. Sau đó rẽ vào con đường thảm nhựa phẳng lì, uốn lượn qua những ngọn đồi xanh mướt cà phê, điều. Hai bên đường có những ngôi nhà cao tầng mới xây, thay dần nhà dài đơn sơ của người S’Tiêng thuở trước. Phải mất gần một giờ đồng hồ chạy xe máy, chúng tôi mới tìm được nhà ông Điểu M’Riêng (sinh năm 1953, người đồng bào S’Tiêng), người rõ chuyện Bom Bo. Sau lời chào hỏi thân tình, ông M’Riêng chia sẻ, căn cứ Nửa Lon (nay thuộc thôn 4, xã Đường 10), ghi dấu việc mở hành lang nối liền hậu phương lớn miền Bắc xã hội chủ nghĩa với tiền tuyến lớn miền Nam. Hồi đó khó khăn, thiếu thốn, mỗi người chỉ được nửa lon gạo trong một ngày nên cái tên Nửa Lon ra đời.
ông Nguyên Văn Lưu Phó chủ tịch huyện Bù Đăng giới thiệu về tiềm năng phát triển du lịch trong buổi họp báo
Năm 1965, để chuẩn bị cho chiến dịch Đồng Xoài – Phước Long, đồng bào S’Tiêng ở sóc Bom Bo vào căn cứ huy động cối, chày giã gạo nuôi quân. Chỉ trong 3 ngày đêm người dân Bom Bo giã 5 tấn gạo, giúp bộ đội ăn no, đánh khoẻ. Cảm động trước tấm lòng yêu nước, thuỷ chung với cách mạng của bà con nơi đây, cố Nhạc sĩ Xuân Hồng viết nên ca khúc “Tiếng chày trên sóc Bom Bo” còn mãi với thời gian. Ông hồi ức: “Khi ấy, đồng bào S’Tiêng trồng lúa trên nương rẫy và giã gạo bằng chày, sẵn sàng bỏ lại nhà cửa đi theo cách mạng. Ngày thì trồng lúa mì, tối thức trắng đêm giã gạo nuôi quân, “bao nhiêu gạo là bao nhiêu tình”, không đong đếm được”. Sóc Bom Bo đi vào huyền thoại và bất diệt với thời gian, khi tên đất, tên người, từng con sông, ngọn núi đã in đậm ký ức hào hùng của một thời bão đạn của cuộc chiến vệ quốc.
Trở ra thôn Bom Bo (nay thuộc xã Bình Minh) để gặp già làng Điểu Lên (sinh năm 1945), người đồng bào S’tiêng. Già Điểu Lên lưu giữ những ký ức một thời hào hùng của buôn làng và cũng là đại diện ưu tú cho người S’Tiêng trong những năm tháng khốc liệt của chiến tranh. Sinh ra trong một gia đình S’Tiêng giàu truyền thống cách mạng, lớn lên trên mảnh đất Bom Bo, cũng như bao người con của buôn làng, già Điểu Lên không biết “cái chữ nó như thế nào” nhưng tinh thần cách mạng được hun đúc từ rất sớm. Lên 15 tuổi, già Điểu Lên đã là cậu bé giao liên, làm nhiệm vụ đưa thư cho cán bộ trong căn cứ, chưa tròn tuổi đôi mươi, ông nhập ngũ. Trong kháng chiến chống Mỹ, già Lên tham gia hơn 40 trận, nhiều lần lập công, được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt ác phá kìm”, “Dũng sĩ diệt Mỹ – ngụy”.
Bỏ cây súng về với đời thường, già Điểu Lên còn sưu tầm những hiện vật gắn liền với Bom Bo, những câu chuyện về tấm gương con người làm rạng danh Bom Bo. Nó giống như hồn thiêng sông núi, tiếng vọng từ phía đại ngàn đến hôm nay để giáo dục truyền thống cách mạng cho bao thế hệ người dân Bom Bo.
Giữ hồn văn hoá S’tiêng
Đối diện nhà già Điểu Lên bên kia đường là Khu Bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo với hơn 113ha do UBND huyện Bù Đăng quản lý. Nơi đây có nhà dài truyền thống của người S’tiêng nhánh Bù lơ ở Bình Phước, mái lợp cỏ tranh hoặc lá mây, vách làm bằng thanh tre và cột tận dụng gỗ rừng. Gần đó có bộ cồng, chiêng lớn nhất Việt Nam được đúc tại làng đồng Nam Định, mỗi chiếc nặng từ 130kg đến 750kg. Ngay khu vực lễ hội là đàn đá nặng 20 tấn đạt kỷ lục lớn nhất Việt Nam, được khai thác từ vùng núi Bình Phước và Tây nguyên, mỗi thanh đàn nặng dao động từ 400kg đến 600kg, tương ứng với một nốt nhạc.
Anh Điểu Cóc (người đồng bào S’tiêng) tâm sự: Bà con Bom Bo vẫn giữ bản sắc văn hóa truyền thống, với làn điệu dân ca, múa truyền thống. Việc khôi phục, xây dựng sóc Bom Bo trở thành điểm di tích lịch sử văn hóa là việc làm có ý nghĩa không chỉ đối với bà con dân tộc S’tiêng mà còn là niềm tự hào, góp phần giữ gìn truyền thống cách mạng, phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế, du lịch của địa phương.
Sau khi tham quan một vòng, chúng tôi dự buổi biểu diễn văn hóa, nghệ thuật của già trẻ, trai gái người đồng bào dân tộc S’tiêng ngay tại khu vực sân lễ hội. Chính giữa là nơi để đốt lửa, khi một bó củi lớn được đốt lên, hình dung như ánh lửa lồ ô bập bùng, là lúc các nghệ nhân cồng, chiêng và nghệ nhân say sưa theo nhạc điệu đêm rừng. Các nghệ nhân cũng tái hiện lại hình ảnh bà con Bom Bo đốt đuốc lồ ô, giã gạo thâu đêm giúp bộ đội ăn no, đánh khoẻ. Chúng tôi cũng cảm nhận sâu sắc hơn về câu hát: “Đuốc gần tàn nhịp chày thêm rắn rỏi, bóng trăng lên vừa khỏi đỉnh đồi cây. Người chưa người đã có người thay, cối gạo với đi rồi cối gạo lại đầy”. Trời dần về khuya, lửa tàn, mọi người mới chia tay ra về trong bịn rịn.
Theo lãnh đạo Khu bảo tồn văn hoá S’Tiêng sóc Bom Bo, địa phương có 13 đội cồng chiêng với khoảng 70 nghệ nhân biết nghệ thuật trình diễn cồng chiêng, mang ý nghĩa nghi lễ và tâm linh. Huyện cũng chú trọng xây dựng nghệ thuật biểu diễn cồng chiêng thành sản phẩm du lịch đặc trưng để trình diễn tại Khu bảo tồn văn hóa dân tộc S’tiêng sóc Bom Bo, phục vụ bà con và du khách.
Thanh niên nam nữ người S’Tiêng tại hiện lại bà con Sóc Bom Bo giã gạo nuôi quân trong kháng chiến chống Mỹ
Lễ hội mừng lúa mới của đồng bào dân tộc S’Tiêng tại Khu bảo tồn văn hoá S’ Tiêng sóc Bom Bo
Già làng Điểu Lên- người giữ hồn văn hoá S’tiêng cũng là nhân chứng cho một thời kỳ lịch sử hào hùng của người dân Bom Bo
Nhà dài truyền thống của người đồng bào dân tộc S’Tiêng
Vui cùng tiếng chày ngày hội
Trở lại Bù Đăng lần này, chúng tôi có dịp đến tham quan thác Voi, thác Bù Xa, Trảng cỏ Bù Lạch, thác Đứng, thác Pan Toong và nhiều cảnh đẹp nên thơ do thiên nhiên ban tặng trãi khắp. Bù Đăng còn có lễ hội của người S’tiêng, M‘Nông, người Tày, Nùng hay Ê đê, Châu Mạ. Nó gần gũi và đang mời gọi: “Người đi xa vắng rồi sẽ có ngày về đường này thăm sóc Bom Bo”. Theo chia sẻ của anh Tân Tiến (du khách đến từ TPHCM), vùng đất này có những ngọn thác sừng sững, phong cảnh hùng vĩ như bản hoà tấu lãng mạn, trữ tình, nhưng cũng thắc mắc: “Đẹp vậy, sao vẫn vắng khách đến tham quan, du lịch?”.
Đem câu hỏi đến gặp anh Vũ Đức Hoàng, Trưởng Phòng Văn hoá – Thông tin huyện Bù Đăng, chúng tôi được biết, do cơ sở hạ tầng du lịch chưa được đầu tư đồng bộ, chưa thu hút được nhiều doanh nghiệp vào đầu tư, nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ phát triển du lịch còn thiếu, dịch vụ chưa đa dạng, chất lượng chưa cao nên chưa tạo được đột phá trong phát triển du lịch. Anh Hoàng cho biết cung cấp thông tin: “Điều đáng mừng là, cơ quan chức năng đã công nhận kỷ lục quốc gia đối với bộ đàn đá, bộ cồng, chiêng và 5 ngành, nghề là di sản văn hoá phi vật thể cấp quốc gia đang tạo nét văn hoá riêng, sự phong phú, đa dạng đời sống văn hoá của người dân trong vùng”.
Đặc biệt, Bù Đăng tổ chức lễ hội “Vang mãi tiếng chày trên sóc Bom Bo” từ ngày 8 đến ngày 10-11-2024 với hội nghị “Khởi nghiệp du lịch” – công bố kết nối tour du lịch, lễ hội “Kết bạn cộng đồng” của người S’tiêng, trình diễn hòa tấu 50 bộ đàn đá, chạy việt dã xung quanh đồi Xuân Hồng, chủ đề “Đường về sóc Bom Bo”; “Đêm hội Bom Bo”. Lễ hội hứa hẹn thu hút khách du lịch trong, ngoài tỉnh đến tham quan, thưởng thức ẩm thực và các tiết mục nghệ thuật đặc sắc trên vùng đất này.
Theo ông Nguyễn Văn Lưu, Phó Chủ tịch UBND huyện Bù Đăng, lễ hội “Vang mãi tiếng chày trên sóc Bom Bo” sẽ quảng bá tiềm năng du lịch vừa bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trên địa bàn và kêu gọi sự quan tâm, đầu tư của các doanh nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống người dân. Lễ hội thể hiện lòng tự hào dân tộc, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” là động lực cho Đảng bộ, chính quyền, nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế – xã hội và cũng để mỗi lần nghe tiếng chày tay lại nhớ về Bom Bo- huyền thoại đánh Mỹ.
PHẠM XUÂN CHUNG
Phòng thông tin tuyên truyền