EnglishVietnamese
Trang chủ / Nghiên cứu - Xây dựng pháp luật / Cung Cấp Thông Tin / Bàn về nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại cấp phúc thẩm theo khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015

Bàn về nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại cấp phúc thẩm theo khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015

– LÊ THỊ THANH XUÂN ( Phòng 9 Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Trà Vinh) – Việc nguyên đơn rút đơn khởi kiện là quyền tự định đoạt và được pháp luật tôn trọng trong bất kì giai đoạn tố tụng nào kể cả giai đoạn phúc thẩm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì pháp luật vẫn phải hạn chế quyền này, cụ thể là ở giai đoạn phúc thẩm được quy định tại Điều 299 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015. Vấn đề đặt ra thực tiễn hiện nay áp dụng quy định tại Điều 299 BLTTDS năm 2015 còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do quy định chưa cụ thể, rõ ràng.

Quy định nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại phiên tòa phúc thẩm

Điều 299 BLTTDS năm 2015 quy định:

“1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau: 

a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; 

b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật”

Quan điểm thứ nhất: Vụ án thụ lý phúc thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt thì Hội đồng xét xử ngừng phiên tòa để ra văn bản hỏi ý kiến bị đơn có đồng ý hay không là đúng quy định về trình tự pháp luật tố tụng và việc bị đơn vắng mặt không thể biết trước được diễn biến tại phiên tòa về việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn, nên chưa có thể có ý kiến được, việc hỏi ý kiến của bị đơn trong trường hợp này là hợp lý.

Quan điểm thứ hai: Vụ án thụ lý phúc thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục mà không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Bởi lẽ, trường hợp này không thuộc vào trường hợp ngừng phiên tòa để hỏi ý kiến bị đơn theo Điều 259 BLTTDS năm 2015.

Quan điểm thứ ba: Vụ án thụ lý phúc thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt không có lý do chính đáng thì Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án, do bị đơn không chấp hành theo triệu tập Tòa án thì coi như tự ý từ bỏ quyền lợi của mình.

Quan điểm của tác giả nhận thấy, hiện nay thực tiễn xét xử vận dụng quan điểm thứ ba, thứ hai, nếu bị đơn vắng mặt tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử coi như cố tình từ bỏ quyền lợi của mình và xem xét trong vụ án có ảnh hưởng đến quyền lợi của bị đơn hay đương sự khác hay không, nếu không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của bị đơn, người liên quan khác, Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn và ra Quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án quan điểm này phù hợp với pháp luật. Theo quan điểm thứ nhất, để đảm bảo quyền lợi cho bị đơn trong việc chấp hành đúng pháp luật, nên cần phải dừng hoặc ngừng phiên tòa là không cần thiết.

Hiện nay khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 không quy định cụ thể việc bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt hay cố tình vắng mặt. Vì vậy, dẫn đến viêc áp dụng pháp luật khác nhau.

Về xác định nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm

Vụ án thụ lý phúc thẩm mà nguyên đơn rút đơn khởi kiện tại phiên tòa còn liên quan đến việc xác định nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm.

Ví dụ: Ông N.V.M khởi kiện tranh chấp chia thừa kế với ông N.V.A và yêu cầu ông N.V.A chia thừa kế là quyền sử dụng đất mà ông A đang quản lý canh tác, trong quá trình thu thập chứng cứ có đủ căn cứ không phải là tài sản của của cha, mẹ ông M và ông N để lại mà đã được cha, mẹ tặng cho ông N. Từ đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử không chấp nhận yêu cầu của ông N.V.M và thu án phí có giá ngạch 14.500.000 đồng (theo giá trị tài sản).

Điểm a khoản 1 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016  “…Trường hợp Tòa án xác định tài sản chung, di sản thừa kế mà đương sự yêu cầu chia không phải là tài sản của họ thì đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch”

Ông Ông N.V.M kháng cáo và tại phiên tòa phúc thẩm ông N.V.M rút đơn khởi kiện được bị đơn đồng ý. Hội đồng xét xử phúc thẩm buộc nguyên đơn ông N.V.M chịu án phí 14.500.000 đồng và 150.000 đồng án phí phúc thẩm.

Theo điểm b khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 quy định:“…Hội đồng phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự theo quyết định của Toà án cấp sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật

Khoản 6 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy đinh:“Trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện trước khi mở phiên tòa phúc thẩm hoặc tại phiên tòa phúc thm và được bị đơn đng ý thì các đương sự vn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quyết định của Tòa án cấp sơ thm và phải chịu 50% mức án phí dân sự phúc thẩm.

Quan điểm thứ nhất: Trường hợp án sơ thẩm quyết định sai về án phí thì cấp phúc thẩm vẫn thực hiện tuyên án phí theo quyết định án sơ thẩm đã tuyên buộc các đương sự chịu, điều luật trên không đề cập vấn đề Cấp phúc thẩm xác định án phí lại theo đúng quy định pháp luật cho các đương sự.

Quan điểm thứ hai: Hội đồng xét xử phúc thẩm vẫn được quyền sửa án phí sơ thẩm, nếu như ở quyết định án sơ thẩm xác định thu án phí của đương sự không đúng pháp luật, vì do cấp sơ thẩm xác định không đúng nghĩa vụ chịu án phí của các bên, sửa án phí trong trường hợp trên nhằm đảm bảo quyền lợi đương sự cũng như pháp luật được thống nhất, công bằng.

Kiến nghị sửa đổi, bổ sung  khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015

Quan điểm của người viết: Quan điểm thứ nhất Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ quy định Điều 299 BLTTDS năm 2015 và Khoản 6 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 là hoàn toàn phù hợp, nhưng lại không phù hợp trong trường hợp cấp sơ thẩm thu án phí sai, còn quan điểm thứ hai Hội đồng xét xử sửa án phí sơ thẩm và có quyền xác định lại án phí theo khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 sẽ dẫn đến một cách tùy tiện và thiếu căn cứ pháp luật. Cho nên, cần phải sửa đổi điểm b khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 cần phải bỏ cụm từ “…các đương sự vẫn phải chịu án phí dân sự theo quyết định của Toà án cấp sơ thẩm..” mà thay vào đó là cụm từ“…các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử xác định lại án phí trong trường hợp quyết định của án phí sơ thẩm áp dụng không đúng pháp luật hoặc có thỏa thuận khác”.

Luật quy định không rõ ràng, bất cập, nên người viết đề xuất kiến nghị sửa đổi, bổ sung  khoản 1 Điều 299 BLTTDS năm 2015 như sau:

“1. Trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa phúc thẩm, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi bị đơn có đồng ý hay không và tuỳ từng trường hợp mà giải quyết như sau: 

a) Bị đơn không đồng ý thì không chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn; 

b) Bị đơn đồng ý thì chấp nhận việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn. Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án. Trong trường hợp này, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật, các đương sự vẫn phải chịu án phí sơ thẩm và phải chịu một nửa án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật, Hội đồng xét xử xác định lại án phí trong trường hợp quyết định của án phí sơ thẩm áp dụng không đúng pháp luật hoặc có thỏa thuận khác”.

Trường hợp, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt hoặc có kháng cáo thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải tạm dừng để hỏi ý kiến bị đơn và căn cứ vào điểm a, b mà giải quyết. Đối với bị đơn vắng mặt không có lý do và không có kháng cáo thì tiến hành xét xử theo thủ tục chung”.

Một phiên tòa tại TAND tỉnh Lâm Đồng – Ảnh: Thụy Trang – LĐo