EnglishVietnamese
Trang chủ / Nghiên cứu - Xây dựng pháp luật / Cung Cấp Thông Tin / Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS năm 2015 – Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

Nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định của BLHS năm 2015 – Một số bất cập và kiến nghị hoàn thiện

– PHÙNG VĂN HOÀNG ( Tòa án quân sự Khu vực 2 – Quân khu 1) – Trong phạm vi bài viết dưới đây, tác giả tập trung phân tích các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại Điều 91 BLHS năm 2015, đồng thời đề cập một số bất cập nhằm kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

1. Quy định của BLHS năm 2015 về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội

So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có sự thay đổi về tên gọi từ “người chưa thành niên” thành “người dưới 18 tuổi” và đề cao nguyên tắc bảo vệ lợi ích tốt nhất khi áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Điều 91 BLHS năm 2015 quy định bảy nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội như sau:

Nguyên tắc thứ nhất: Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.

Bảo đảm lợi ích tốt nhất và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội là trong mọi tình huống, mọi trường hợp Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tạo mọi điều kiện và áp dụng các biện pháp phi hình phạt đối với họ. Các cơ quan tiến hành tố tụng khi điều tra, truy tố, xét xử phải xác định độ tuổi của người phạm tội. Tuổi càng ít thì khả năng nhận thức về tính chất nguy hiểm cho xã hội càng hạn chế, ngay cả khi đối với những người cùng độ tuổi, không phải người nào cũng có khả năng nhận thức như nhau, người ở thành phố nhận thức khác người ở vùng sâu, vùng xa, người có trình độ văn hóa cao nhận thức khác người có trình độ văn hóa thấp …

Nội dung quan trọng của nguyên tắc này còn đòi hỏi Cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định nguyên nhân và điều kiện khiến người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi phạm tội. Yêu cầu của nguyên tắc này là giáo dục, giúp đỡ người dưới 18 tuổi phạm tội sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. Do đó, việc áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi cũng phải thể hiện sao cho bảo đảm việc giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, chứ không nhằm trừng trị. Do đó ngay từ khi khởi tố, điều tra, Cơ quan điều tra không chỉ áp dụng các biện pháp pháp lý có lợi nhất, đồng thời phải quán triệt tinh thần là: Nếu không cần thiết bắt giữ tạm giữ, tạm giam đối với họ thì không được áp dụng các biện pháp này. Mặt khác, phải bảo đảm các quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự đối với họ như: Phải có người bào chữa ngay từ khi bị bắt; nếu trường hợp buộc phải bắt giữ để ngăn chặn hành vi nguy hiểm cho xã hội thì sau khi bị bắt, nếu có người bảo lĩnh hoặc thấy việc cho tại ngoại không gây ảnh hưởng cho xã hội thì cương quyết phải cho tại ngoại.[1]

Nguyên tắc thứ hai: Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này.

Điều 29 BLHS năm 2015 quy định các trường hợp được miễn hoặc có thể được miễn TNHS đối với bất cứ người nào không phân biệt người dưới 18 tuổi hay trên 18 tuổi. Tuy nhiên, đối với người dưới 18 tuổi thì việc miễn TNHS, ngoài các quy định tại Điều 29 của BLHS thì Cơ quan tiến hành tố tụng còn phải căn cứ vào quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS.

Các trường hợp mà người dưới 18 tuổi có thể được miễn TNHS gồm:

– Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

– Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

– Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án.

Nguyên tắc thứ ba: Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.

Đây là nguyên tắc đã được quy định từ BLHS năm 1985, khi hành vi phạm tội của họ ở mức độ nghiêm trọng nhất định, nhân thân xấu và xét thấy việc áp dụng các biện pháp giáo dục và tác động khác của xã hội không đủ hiệu lực để phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung thì mới tiến hành truy cứu TNHS.

Nguyên tắc thứ tư: Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.

Nội dung nguyên tắc này đòi hỏi các Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn TNHS hoặc áp dụng một trong các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, tại trường giáo dưỡng nhưng không có hiệu quả. Như vậy, trước khi Tòa án áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi thì phải áp dụng các biện pháp không phải là hình phạt trước. Tuy nhiên, trên thực tế Tòa án chỉ cân nhắc và xem xét tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để quyết định có áp dụng hình phạt hay không. Nếu xét thấy không cần áp dụng hình phạt thì mới áp dụng các biện pháp giáo dục khác.

Nguyên tắc thứ năm: Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Đây là nguyên tắc xử lý, đồng thời cũng là căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội được quy định từ BLHS năm 1985 và được nhắc lại tại BLHS năm 1999 và BLHS năm 2015, thể hiện thái độ của Nhà nước ta dứt khoát không áp dụng hình phạt tử hình và chung thân đối với người dưới 18 tuổi phạm tội; quy định này thể hiện được nguyên tắc không lấy trừng trị là mục đích của hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Nguyên tắc thứ sáu: Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.

Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Đây cũng là nguyên tắc xử lý, đồng thời cũng là căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Nội dung của nguyên tắc này cũng tương tự như nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 91 BLHS. Tuy nhiên, đây là căn cứ áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Như vậy, BLHS 2015 đã quy định rõ hơn khi nào thì cần thiết áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Còn tại BLHS 1999 lại không quy định rõ khi nào sẽ áp dụng hình phạt tù đối với NCTN phạm tội. Điều này đã làm cho việc áp dụng hình phạt tù ở NCTN phạm tội một cách tràn lan, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của NCTN phạm tội.

Trong BLHS 2015 đã bỏ đi phần “không áp dụng hình phạt tiền đối với NCTN phạm tội ở độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi” mà trong BLHS 1999 có quy định tại khoản 5 Điều 69. Hình phạt tiền quy định trong BLHS 1999 và BLHS 2015 tùy trong từng trường hợp mà được coi là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Tuy nhiên, đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, hình phạt tiền được xem là hình phạt chính, nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Như vậy, chỉ cần là người dưới 18 tuổi phạm tội, tùy theo mức độ tội phạm, nhân thân người phạm tội mà có thể áp dụng hình phạt tiền. Quy định mới này nhằm hạn chế việc áp dụng hình phạt tù đối với người dưới 18 tuổi đồng thời việc ápdụng phạt tiền đối với người dưới 18 tuổi phạm tội trong những trường hợp này vẫn đảm bảo đạt được mục đích của hình phạt.

Nguyên tắc thứ bảyÁn đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.

Việc không quy định đối với người chưa đủ 16 tuổi bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm cũng là thể hiện nguyên tắc không coi việc trừng trị là mục đích đối với người dưới 16 tuổi và tạo điều kiện cho các em phát triển bình thường trong cuộc sống trước mắt và lâu dài, vì đối với người chưa đủ 16 tuổi còn cả một tương lai phía trước.

2. Những hạn chế, vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện

Thứ nhất, về quy định miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội: Qua nghiên cứu bài viết “Một số vướng mắc trong thực tiễn xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội – Một số kiến nghị, đề xuất” của tác giả Võ Văn Thể ( Thẩm phán TAND huyện Quế Sơn, Quảng Nam) đăng trên Tạp chí điện tử Tòa án nhân dân, tác giả nhất trí với quan điểm bài viết đưa ra mà thực trạng này phổ biến ở hầu hết các Tòa án đó là việc áp dụng chế định miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét xử.

Theo quy định của BLHS năm 2015: Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 của Bộ luật và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của BLHS năm 2015 thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục quy định tại mục 2 Chương XII của BLHS.

Thực tiễn xét xử, rất ít khi Tòa án áp dụng quy định người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS. Bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân xuất phát từ ý thức chủ quan của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, vì điều luật quy định “có thể” cho miễn trách nhiệm hình sự tức là quy định tùy nghi, không bắt buộc nên Thẩm phán có quyền lựa chọn, nếu xét thấy bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng có nhiều tình tiết giảm nhẹ và đã tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả và đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 nhưng Thẩm phán thường chọn giải pháp là xử bị cáo hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo do chưa có hướng dẫn cụ thể.

Mặc khác, mặc dù BLHS năm 2015 và BLTTHS năm 2015 đã quy định đầy đủ về thẩm quyền, nghĩa vụ, thời hạn và trình tự, thủ tục áp dụng các biện pháp giám sát, giáo dục nhưng hiện chưa có Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn riêng về các biễu mẫu áp dụng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đối với những trường hợp trên nên Thẩm phán của các Tòa án địa phương rất ít khi áp dụng các biện pháp này.

Nghiên cứu 60 biểu mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết số 05/2017/NQ-HĐTP ngày 19/9/2017 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC chúng tôi thấy rằng các biểu mẫu này chỉ hướng dẫn chung cho thủ tục tố tụng của một vụ án hình sự.

Một nguyên nhân khác nữa là khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 quy định một trong các điều kiện để người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự là họ phải có “nhiều tình tiết giảm nhẹ” và theo thiết kế về kỹ thuật lập pháp của BLHS thì có từ hai tình tiết trở lên là nhiều nhưng không quy định rõ các tình tiết giảm nhẹ này đều ở khoản 1 Điều 51 hay cả khoản 1, 2 Điều 51 BLHS. Trong khi tham khảo Điều 54 BLHS năm 2015 quy định rất rõ trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng thì phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Với quy định chưa rõ ràng như vậy cũng tạo sự thiếu thống nhất trong xét xử nên các Thẩm phán rất khó áp dụng mà hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể cho trường hợp này.[2]

Thứ hai, về khoản 3, Điều 91 BLHS năm 2015

Nguyên tắc thứ 3 quy định “việc truy cứu TNHS người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm”.

Tuy nhiên điều luật lại không quy định trường hợp nào là “cần thiết”, điều này rất có thể dẫn đến việc áp dụng pháp luật khác nhau khi tiến hành xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo tác giả cần thiết” ở đây là phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân người phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm. Khi xét thấy việc miễn TNHS cho người dưới 18 tuổi phạm tội là vượt quá giới hạn của việc để cho người phạm tội tự kiểm điểm, hối lỗi đối với hành vi của mình, cho rằng với hành vi này không thể để tự người phạm tội nhận ra lỗi lầm, tự ăn năn hối cải mà cần phải có sự can thiệp của các cơ quan chức năng, cần phải có một chế tài mạnh hơn để xử lý.

Ví dụ: Vào tháng 11 năm 2019, A (17 tuổi) phạm tội trộm cắp tài sản quy định tại khoản 1, Điều 173 BLHS 2015 là tội phạm ít nghiêm trọng, tuy nhiên cách đây 2 năm, A đã phạm tội cướp tài sản (theo quy định tại Điều 168 BLHS), bị áp dụng biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng, sau khi chấp hành xong thời hạn, trở về với xã hội, A lại tiếp tục hút chích ma túy, đánh bạc, thường xuyên gây gổ đánh nhau. Như vậy, việc miễn TNHS cho A đối với hành vi trộm cắp là điều không thể, A sẽ không thể nhận ra lỗi lầm của mình để tự sửa chữa, cần phải có sự can thiệp của các cơ quan nhà nước.Trong trường hợp này, các cơ quan chức năng cần áp dụng các biện pháp xử lý hình sự mạnh hơn.

Thứ ba, về khoản 6, Điều 91 BLHS năm 2015

Nguyên tắc thứ sáu có viết “Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất”. Tác giả cho rằng không nên đưa cụm từ “thời hạn thích hợp ngắn nhất” vào trong điều luật. Cụm từ này khá trừu tượng, thế nào là “ngắn nhất”, thế nào là “thích hợp”?. Theo tác giả cần hạn chế tối đa những cụm từ hoặc từ ngữ khó áp dụng trong thực tế. Mặt khác, đây là nguyên tắc xét xử chung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, do vậy chỉ cần nêu những nguyên tắc định hướng cơ bản mà không nên can thiệp quá sâu. Việc quyết định hình phạt cho người dưới 18 tuổi phạm tội là tùy thuộc vào sự phán quyết của Hội đồng xét xử dựa trên những căn cứ như: quy định của pháp luật, tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Việc quy định “thời gian thích hợp và ngắn nhất” sẽ gây ra khó khăn cho Hội đồng xét xử khi đưa ra quyết định hình phạt của mình. Bởi họ đã tuân thủ đúng các nguyên tắc xét xử áp dung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nhưng vẫn không hiểu thời hạn đưa ra đã “thích hợp và ngắn nhất chưa”.

Như vậy, để đảm bảo quyền lợi của người dưới 18 tuổi phạm tội và áp dụng pháp luật được thống nhất. Theo tác giả, các cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể việc áp dụng quy định miễn trách nhiệm hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội tại khoản 2 Điều 91 BLHS năm 2015 mà trong các bài viết khác về quy định trên đã kiến nghị; giải thích thống nhất các cụm từ áp dụng mang tính tùy nghi như “chỉ trong trường hợp cần thiết” quy định tại khoản 3 Điều 91, “thích hợp và ngắn nhất” quy định tại khoản 6 Điều 91. Bên cạnh đó cần có Nghị quyết ban hành các biễu mẫu hướng dẫn riêng đối với những trường hợp người dưới 18 tuổi phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp giám sát, giáo dục quy định tại Chương XII của BLHS.

 

[1] Đinh Văn Quế – Bình luận Bộ luật Hình sự năm 2015, phần “những quy định chung

[2] Bài viết: Vướng mắc trong thực tiễn xét xử người dưới 18 tuổi phạm tội, tác giả: Võ Văn Thể – Thẩm phán TAND huyện Quế Sơn, Quảng Nam tại trang web: https://cdn.tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/vuong-mac-trong-thuc-tien-xet-xu-nguoi-duoi-18-tuoi-pham-toi-mot-so-kien-nghi-de-xuat